Tư tưởng Hồ Chí Minh Học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Marx Lenin

Tại Việt Nam, học thuyết về nhà nước của Chủ nghĩa Mác-Lênin hay còn gọi là lý luận về nhà nước và pháp luật đã được Hồ Chí Minh việt hóa thông qua việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam cũng như thực tiễn đấu tranh giành, giữ chính quyền cộng sản cộng với những năm tháng quản lý, chỉ đạo điều hành miền Bắc Việt Nam và một số vùng miền cộng sản kiểm soát tại miền Nam Việt Nam. Những tư tưởng này được tập hợp và được cộng sản Việt Nam khái quát đặt tên thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, một nhà nước trong sạch, vững mạnh[29] và được coi là tài liệu tuyên truyền bồi dưỡng chính trị cho cán bộ, công chức, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và cũng đưa vào các trường Đại học theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam.

Trong quá trình hoạt động cách mạng và học tập những lý luận bên ngoài, Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu lựa chọn ra một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản thành công. Nhà nước đó phải đại biểu quyền lợi cho số đông người và Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng một Nhà nước công nông binh thể hiện trong Chánh cương vắn tắt của Đảng khi thành lập Đảng đầu năm 1930. Hồ Chí Minh đã từng có chủ trương xây dựng ở Việt Nam một nhà nước Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong bài báo Dân vận (năm 1949), Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.

Nhà nước nhân dân

Nhà nước của dân: Nhà nước theo quan điểm của Hồ Chí Minh là nhà nước của dân, ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, ông có ghi chú rằng: Nhà nước Việt Nam dân chủ kiểu mới là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cơ sở xã hội của nhà nước đó là toàn thể dân tộc Việt Nam, dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.[30] Và từ năm 1941, ông cũng đã có chủ trương rằng: Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới, không phải thuộc quyền riêng của giai cấp nào mà là của chung, của toàn thể dân tộc, chỉ trừ bọn tay sai của đế quốc Pháp Nhật và những bọn phản quốc…, còn ai là người dân sống trên dải đất Việt Nam, hết thảy đều được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy[31]

Theo như cách hiểu mà ông đã thể hiện thì quan điểm của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã chủ trì lãnh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của ông được thể hiện trong các bản Hiến pháp đó. Điều 1 của Hiến pháp Việt Nam năm 1946 nêu rõ: Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo hay Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết.

Nhân dân lao động mà làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.[31]

Như thế, Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí cao. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, cậy thế làm càn với dân, quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân mà ông hay quở trách.

Nhà nước do dân: Nội dung này có thể nói ngắn gọn là nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Hồ Chí Minh thẳng thừng tuyên bố rằng: việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần, quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.

Ông cũng đưa ra những câu nhận định đại loại như: Tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân hay như ý kiến: Lực lượng bao nhiêu là nhờ dân hết nhà nước muốn điều hành quản lý xã hội có hiệu quả thì phải dựa vào dân, và dân như nước, mình như cá, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân.

Hễ Chính phủ nào mà có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải đập đổ Chính phủ ấy đi, và gây nên Chính phủ khác
— Hồ Chí Minh[30]

Nhà nước vì dân: Theo những người nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh thì họ cho rằng Hồ Chí Minh coi nhân dân là chủ thể quyền lực, nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung chứ Nhà nước không phải là nơi để thăng quan, phát tài, chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc. Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra...

Nhà nước vì dân theo ông này là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân, việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Và nhiệm vụ của nhà nước là phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành.[32]

Nhà nước vì dân cũng theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan cách mạng để đè đầu cưỡi cổ nhân dân như dưới thời đế quốc thực dân. Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân.

Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta
— Hồ Chí Minh[33]

Nhà nước Pháp quyền

Những nhà soạn thảo môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho rằng: Hồ Chí Minh đã sớm thấy được tầm quan trọng của pháp luật trong quản lý xã hội. Điều này thể hiện trong bản Yêu sách 19 điểm của nhân dân An Nam do ông ký tên là Nguyễn ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây (Pháp) năm 1919 nhưng đã bị phớt lờ. Sau này, khi nắm quyền lực, Hồ Chí Minh càng để ý đến việc xây dựng và điều hành nhà nước một cách có hiệu quả bằng pháp quyền.

Các đại biểu Quốc hội khóa I

Trên thực tế cho thấy, chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã hối thúc tổ chức tổng tuyển cử càng sớm càng tốt để lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy chính thức khác của Nhà nước mới. Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành gấp rút và chóng vánh vào ngày 06 tháng 1 năm 1946 với chế độ phổ thông đầu phiếu và lần đầu tiên ở Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam Á.

Trong một diễn biến tiếp theo vào ngày 2 tháng 3 năm 1946, Quốc hội Khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã họp Phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây chính là Chính phủ đã được dựng lên và tự tuyên bố là có đầy đủ giá trị pháp lý để thay chính quyền của Pháp và chính phủ Trần Trọng Kim quản lý, cai trị chính thống ở Việt Nam. Các bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 đã cho thấy.

Cũng từ năm 1919, Hồ Chí Minh đã đề cập vấn đề thần linh pháp quyền trong đời sống xã hội. Có Hiến pháp và pháp luật nhưng không đưa được vào trong cuộc sống thì xã hội cũng sẽ bị rối loạn. Trong thời kỳ đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh chú ý và bỏ công xây dựng pháp chế để bảo đảm quyền làm chủ của dân chúng. Ông cũng tự mình làm gương về lối sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tự giác khép mình chấp hành kỷ luật. Ông cũng cho rằng công tác giáo dục pháp luật (tuyên truyền) cho mọi người là quan trọng.

Đội ngũ công bộc

Bài chi tiết: Cán bộCông chức

Đây cũng là một nội dung quan trọng và thường được Hồ Chí Minh nhắc nhiều trong tư tưởng của mình về xây dựng nhà nước. Một nhà nước chỉ có thể có hiệu lực, thực thi được quyền lực của mình thông qua nhân tố quan trọng chính là cán bộ, công chức, lính tráng, thừa lại. Để chủ trương chính sách và lợi ích của Đảng cầm quyền được thực thi thì phải thông qua từng vị trí cán bộ, công chức, viên chức cụ thể.

Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu sau đây về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức mà ông cho là lý tưởng để sử dụng hiệu quả:

  • Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng trung thành đó phải được thể hiện hàng ngày, hàng giờ, trong mọi lĩnh vực công tác.
  • Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Ngay trong thời kỳ đánh nhau với Pháp, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76 ban hành Quy chế công chức nêu rõ công chức là người giữ một nhiệm vụ cụ thể trong bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ. Sắc lệnh cũng nêu lên cách thức và nội dung thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính trong bộ máy chính quyền.
  • Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Phải chống bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, phải luôn luôn gần dân, hiểu dân và vì dân. Cán bộ, công chức xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền...đối với nhân dân đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu Nhà nước, thậm chí làm biến chất Nhà nước.
  • Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, có tinh thần trách nhiệm. Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh gửi thư cho ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ sáu căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Ông tuyên bố rằng:
Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa, nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ "công bình, chính trực" vào lòng
— Hồ Chí Minh[34]

Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Bắc Việt, Hồ Chí Minh rất phật ý và thường xuyên đề cập đến những tiêu cực trong Chính quyền của ông, những cán bộ, công chức, lãnh đạo Đảng và Nhà nước các cấp dưới quyền của ông thay vì tỏ ra là những nô tài trung thành và cúc cung tận tụy với nhân dân thì thực tế họ hay gặp phải những tiêu cực như:

  • Đặc quyền, đặc lợi. Theo Hồ Chí Minh thì với những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, rất nhiều người trong số họ đã sa vào chủ nghĩa cá nhân.
  • Tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Hồ Chí Minh thì tham ô, lãng phí, quan liêu là "giặc nội xâm", "giặc ở trong lòng", thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Nhiều người "lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức". "Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến...Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám".[35]
Để khắc phục, ông đã mạnh tay với chính cấp dưới của mình thể hiện qua việc ngày 27 tháng 11 năm 1946, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ, tiếp đến, ngày 26 tháng 1 năm 1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công là tội tử hình.
  • "Tư túng", "chia rẽ", "kiêu ngạo". Những hành động này gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác, tệ kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Ngay cả trong chính quyền, còn chia rẽ, không biết cách làm cho mọi người hòa thuận với nhau, còn có người "bênh vực lớp này, chống lại lớp khác". Ngoài cậy thế, có người còn kiêu ngạo, "tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi...Cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng", làm mất uy tín của Chính phủ.